Hiện nay, những quy định về
định giá tài sản trí tuệ còn tồn tại nhiều bất cập, cụ thể:
Thứ nhất. Các văn bản pháp
luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về cụm từ “tài sản trí tuệ”. Bộ luật
Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam (tại phần thứ VI). Các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại Bộ
luật bao gồm:
- Các đối tượng quyền tác giả:
tác phẩm văn học, nghê thuât, khoa hoc;
- Các đối tượng quyền sở hữu
công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn
hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng khác do pháp luật quy
định.
Sau Bộ luật này, Bộ luật Dân
sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã tiếp tục bổ sung và hoàn thiện
hơn các quy định về các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, Chuẩn mực
kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được ban hành vào năm 2001 lại sử dụng
các thuật ngữ không chính xác so với quy định của Bộ luật Dân sự 1995 cũng như
quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài sản trí tuệ như: phần mềm máy
tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá. Thuật ngữ
“bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền sáng chế” dùng để chỉ văn
bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về chủ sở hữu sáng chế, tên tác giả, đối tượng
bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng độc quyền sáng chế” không
phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố định vô hình của doanh
nghiệp. Những “sáng chế” đƣợc pháp luật bảo hộ mới là tài sản cố định vô hình
chứ không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến sáng
chế được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế lại chỉ được giới hạn
là “bằng sáng chế”, như vậy nếu đựơc bảo hộ dưới hình thức là giải pháp hữu ích
hoăc chưa đăng ký bảo hộ sáng chế, doanh nghiệp sẽ khó có cơ sở để tính toán
giá trị của các tài sản này.
Thứ hai. Các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy
định phân loại tài sản trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và
tính vào giá trị doanh nghiệp
Theo Chuẩn mực kế toán số
04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được coi là tài sản cố định
vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu (trong trường hợp nhãn hiệu đó
không phải được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp như nhãn hiệu đó được mua lại).
Tuy nhiên, Thông tư số 45/2013/TT- BTC, Khoản 2, Điều 4 quy định tất cả các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng) đều được coi là tài sản cố định vô hình và từ đó
là cơ sở để định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp.
 |
Thực trang quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ |
Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của
Thông tư số 45/2013/TT-BTC coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô
hình của doanh nghiệp, là mâu thuẫn với quy định tại Khoản 4, Điều 121 Luật Sở
hữu trí tuệ: “chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước”. Do đó, không
thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp.
Thương hiệu có được coi là
tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không vẫn còn mâu thuẫn. Theo
Thông tư số 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao gồm nhãn hiệu và tên
thương mại) được tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Tuy nhiên,
trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố định
để được định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp.
Thứ ba. Quy định về phương
pháp định giá còn thiếu nhất quán
Tiêu chuẩn thẩm định giá số
13 quy định về các phương pháp xác định
giá trị tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi
phí tái tạo và phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các
văn bản pháp luật hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
giá trị tài sản trí tuệ chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch
sử (chi phí quá khứ). Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi
phí cho việc phát triển cộng với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy
trì hiệu lực độc quyền đối với tài sản trí tuệ đó, chẳng hạn giá trị bản quyền,
bằng sáng chế là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả,
bằng sáng chế; giá trị nhãn hiệu là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới
việc mua nhãn hiệu; giá trị thương hiệu bao gồm các chi phí thực tế cho việc
“sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại” của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Chuẩn mực
kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo
nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn trước hoạt động của
doanh nghiệp mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu,… không được tính
vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ. Trong khi đó, theo quy định của Thông
tư số 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp cổ phần hóa được
xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu,
tên thƣơng mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm: chi phí
thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên
truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công
ty; xây dựng trang web....
Sự mâu thuẫn trong việc xác
định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các văn bản pháp luật nói
trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong việc vận dụng phương
pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ của doanh nghiệp trong suốt quá trình
kinh doanh.
Thứ tư. Thiếu các quy định về
định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền
sở hữu trí tuệ
Ở Việt Nam, việc góp vốn,
liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp vốn bằng thương hiệu) diễn ra
khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật. Từ những năm 1990, các tập
đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam thông qua việc liên doanh,
liên kết, mua bán, sáp nhập với các doanh nghiệp trong nước. Thực tiễn trong hoạt
động liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài cho
thấy doanh nghiệp Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các
tài sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ.
Năm 2010, Bộ Tài chính đã chủ
trì xây dựng Thông tư hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng nhãn hiệu. Tuy nhiên, đến nay thì văn bản này vẫn chưa được ban hành vì
có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có tổng kết, đánh giá được hết các vướng
mắc nảy sinh trong thực tiễn. Việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng tài sản
trí tuệ, góp vốn liên doanh, liên kết… bằng giá trị tài sản trí tuệ đối với các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta đến nay vẫn còn là một khoảng
trống.
Thứ năm. Các yêu cầu của
pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của doanh nghiệp giúp cho định giá tài sản
trí tuệ còn bất cập
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số
04 quy định về tài sản cố định vô hình đã hướng dẫn cách xác định nguyên giá và
nguyên tắc ghi sổ kế toán đối với các tài sản trí tuệ được coi là tài sản cố định
vô hình của doanh nghiệp, bao gồm: nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy vi tính, bản
quyền, bằng sáng chế. Các nhãn hiệu hàng hóa được hình thành trong nội bộ doanh
nghiệp không được ghi nhận là tài sản cố định vô hình. Việc không có quy định về
tên thương mại và các loại tài sản trí
tuệ khác, cũng như không coi nhãn hiệu hàng hóa do doanh nghiệp tạo ra là tài sản
cố định vô hình đã gây nhiều trở ngại và thiệt thòi cho doanh nghiệp trong quá
trình định giá, mua bán sáp nhập doanh nghiệp và khi phát hành chứng khoán. Bởi
vì trên thực tế, đối với nhiều doanh nghiệp, tên thương mại và nhãn hiệu hàng
hóa, dịch vụ lại có giá trị lớn, nhiều khi lớn hơn cả tài sản hữu hình của
doanh nghiệp. Và đối tượng hướng tới trong các hoạt động liên doanh, liên kết,
sáp nhập của doanh nghiệp nước ngoài trong các thương vụ với doanh nghiệp Việt
đa phần chính là vì những nhãn hiệu mạnh cũng như thị phần của những doanh nghiệp
này.
Như vậy, giữa các quy định về
kế toán doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có sự không thống nhất
trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương mại. Sự
không thống nhất trong các quy định ghi nhận giá trị tài sản trí tuệ đã khiến
cho mỗi doanh nghiệp, mỗi công ty kiểm toán có cách nhìn và ứng xử khác nhau. Nếu
sử dụng phương pháp chi phí quá khứ để xác định giá trị tài sản trí tuệ sẽ gây
thiệt hại cho các doanh nghiệp sở hữu khối lượng lớn các tài sản trí tuệ trong
các hoạt động liên doanh, liên kết, sáp nhập, cổ phần hóa doanh nghiệp.
Thứ sáu. Thiếu quy định về định
giá tài sản trí tuệ trong việc thực hiện các giao dịch bảo đảm bằng tài sản trí
tuệ
Pháp luật hiện hành về giao
dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ còn khá sơ lược và chưa thực sự tạo
cơ sở pháp lý an toàn cho việc cho vay vốn có tài sản bảo đảm là tài sản trí tuệ.
Theo quy định tại Bộ luật
dân sự năm 2005, quyền tài sản là một loại tài sản có thể dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Điều 322 Bộ luật dân sự quy định: “Các quyền tài sản thuộc
sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng,… đều được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự”. Mặc dù Điều 322 của Bộ luật dân sự liệt kê rõ ràng các
quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
lại không đề cập tới việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này. Cũng không có
bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của giao dịch bảo đảm có
đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Sở
hữu trí tuệ. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Điều 3 Thông tư số
05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng
ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên
tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại
Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm
thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ
được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc
gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí tuệ
như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.
Xác định giá trị tài sản bảo
đảm là một vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch
bảo đảm, đặc biệt là trong việc vay vốn bằng tài sản thế chấp tại các tổ chức
tín dụng. Khoản 1 Điều 324 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Một tài sản có thể được
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm
xác lập giao dịch bảo đảm
lớn hơn tổng giá trị các
nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác". Về “thỏa thuận khác” được giải thích tại Điều 5 của Nghị định
số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm như sau: “các
bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng
giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm”. Đây là những quy định pháp lý duy nhất về
xác định giá trị tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm.
Vì vậy, trên thực tế, đối với
hoạt động cho vay vốn của các tổ chức tín dụng, việc cho vay dựa trên tài sản bảo
đảm là quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được thực hiện do chưa có các quy định
hướng dẫn về định giá một cách cụ thể và phù hợp để các bên liên quan có thể
yên tâm sử dụng tài sản trí tuệ
làm tài sản bảo đảm. Trong
tình hình nợ xấu ngày càng gia tăng như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các
ngân hàng Việt Nam ngày càng thận trọng trong việc xét duyệt các khoản vay của
mình. Như vậy, một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thông thường đã khó tiếp cận
vốn thì các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ sẽ còn
khó tiếp cận vốn hơn.
Luật sư, tiến sĩ Lê Minh
Thái –Tổng giám đốc Công ty luật DHLaw.
Để được tư vấn trực tiếp,
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Bộ phận Tư vấn Sở hữu
trí tuệ DHLaw
Add: Số 185 Nguyễn Văn Thương (đường D1 cũ), Phường 25, Q. Bình Thạnh, TPHCM
Tell: 028 66 826 954
Hotline: 0909 854 850
Email:
contact@dhlaw.com.vn
Rất mong nhận được sự
hợp tác của Quý khách hàng!
Nhận xét
Đăng nhận xét